Giới thiệu luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

Luật Việt Nam về bảo vệ và quản lý sở hữu trí tuệ toàn diện được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Luật Thương mại, Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam và Luật quốc tế.

Ngày đăng: 01-12-2013

9,826 lượt xem

       Luật Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Luật Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

1.  Luật Việt Nam bảo vệ và quản lý sở hữu trí tuệ toàn diện

 Xây dựng sự bảo vệ sở hữu trí tuệ của Việt Nam được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ("Luật dân sự" ) và sửa đổi Luật Thương mại 2005( "Luật Thương mại") có hiệu lực ngày 01 tháng 1 năm 2006 và Luật sở hữu trí tuệ ("Luật SHTT"), có hiệu lực từ ngày 1 tháng Bảy năm 2006.
Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại và Luật SHTT và pháp luật có liên quan triển khai thực hiện cung cấp một khuôn khổ pháp lý toàn diện và chi tiết cho việc thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm bằng sáng chế, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật thương mại, quyền tác giả và "quyền liên quan ", cũng như giống cây trồng. Khuôn khổ pháp luật hiện hành cũng có quy định cấm đối với các hình thức cạnh tranh không lành mạnh.
Lưu ý rằng các luật mới về chuyển giao công nghệ, có hiệu lực từ ngày 1 tháng Bảy năm 2007, đã giảm bớt các quy định trước đây về việc chuyển giao công nghệ và bí quyết để doanh nghiệp Việt Nam và, trong nhiều trường hợp, loại bỏ yêu cầu rằng hợp đồng phải được chấp thuận trước.

Sơ đồ quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam

Sơ đồ quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam

* Các Bộ Việt Nam phụ trách quản lý và bảo vệ sở hữu trí tuệ:

 o Bộ Khoa học và Công nghệ, thông qua cơ quan Văn phòng Quốc gia Sở hữu trí tuệ (NOIP) chịu trách nhiệm các vấn đề sở hữu công nghiệp;
 o Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thông qua Cục Bản quyền, chịu trách nhiệm các vấn đề quyền tác giả; và
 o Bộ Nông nghiệp và Nông Thôn chịu trách nhiệm các vấn đề giống cây trồng.

* Các điều ước quốc tế:

 Sở hữu trí tuệ cũng được quy định và bảo vệ thông qua việc Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế khác nhau bao gồm:
 o Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (từ năm 1949);
 o Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (2004) ;
 o Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ;
 o Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu ( kể từ năm 1949 ) ,
 o Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp định Stockholm)(từ năm 1976 )
 o Hiệp ước Hợp tác sáng chế (từ năm 1993).
 o Công ước về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống sao chép trái phép bản ghi âm của họ (2005);
 o Công ước về phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (Công ước Brussels ) (2006);
 o Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu (Nghị định thư Madrid ) (2006);
 o Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV) (2006);
 o Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng (2007).

 Vào ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO ) . Theo các điều khoản gia nhập của gia nhập WTO, Việt Nam đã đồng ý ngay lập tức thực hiện theo các điều khoản của Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs ). Pháp luật sở hữu trí tuệ trong nước của Việt Nam phản ánh nghĩa vụ của nước này theo các điều ước quốc tế nói trên.
Ngoài ra, Việt Nam đã ký hiệp định song phương liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có Hiệp định giữa Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thiết lập quan hệ bản quyền (1998), một hiệp ước song phương về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với Thụy Sĩ (1999), cũng như Hiệp định giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quan hệ thương mại có hiệu lực từ 10 tháng 12 năm 2001.

 Việt Nam không phải là một bên tham gia Thỏa ước Nice về phân loại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ để phục vụ việc đăng ký nhãn hiệu ("Hiệp định Nice" ). Tuy nhiên, Việt Nam theo hệ thống quốc tế phân loại hàng hóa và dịch vụ được quy định trong Thỏa ước Nice .

2. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan

quyền tác giả và quyền liên quan

Quyền tác giả và quyền liên quan

 

Tác phẩm được bảo vệ bởi luật bản quyền ở Việt Nam cũng tương tự như tác phẩm được đề cập ở các nước khác, bao gồm:

  o Tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học, bao gồm sách giáo khoa, bài giảng, bài phát biểu, tác phẩm báo chí, âm nhạc, tác phẩm sân khấu và điện ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, bản đồ, các bản phác và bản vẽ tương tự, các công trình văn hóa dân gian và nghệ thuật dân gian, cũng như các chương trình máy tính.

  o Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh

 Căn cứ nghĩa vụ của Việt Nam theo các điều ước và công ước quốc tế và các quy định tương ứng của Luật SHTT, bảo vệ cũng được cung cấp cho "quyền liên quan", trong đó có quyền biểu diễn của âm nhạc, múa, tác phẩm nghệ thuật sân khấu, văn học và khác, âm thanh và video ghi âm, như cũng như chương trình phát sóng và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

 Mặc dù bản quyền là tự động trên tạo ra, một hệ thống đăng ký cũng tồn tại. Đăng ký bản quyền là không cần thiết cho một tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam. Tuy nhiên, đăng ký làm người đăng ký giảm trách nhiệm chứng minh quyền tác giả, "quyền liên quan " trong một số trường hợp. Đăng ký được xử lý bởi Cục Bản quyền thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với giấy chứng nhận do là bằng chứng hợp lệ về quyền sở hữu bản quyền tại Việt Nam. Đăng ký bản quyền cũng được ghi trong Đăng ký quốc gia về quyền tác giả và quyền liên kết. Hợp đồng chuyển nhượng hoặc cấp phép bản quyền phải bằng văn bản và phù hợp với yêu cầu cụ thể quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ.

 "Quyền nhân thân" và "quyền tài sản"

 Quyền tác giả bao gồm "quyền nhân thân" và "quyền tài sản".

 Quyền nhân thân (trừ quyền nhân thân để xuất bản hoặc ủy quyền cho người khác công bố tác phẩm) được bảo vệ vô thời hạn.
Quyền tài sản trong các tác phẩm có bản quyền (và quyền nhân thân để xuất bản hoặc ủy quyền cho người khác công bố tác phẩm) được bảo vệ suốt đời của tác giả cộng thêm năm mươi (50) năm, ngoại trừ điện ảnh, nhiếp ảnh, kịch và những tác phẩm khác theo quy định được bảo hộ cho năm mươi (75) năm kể từ ngày công bố đầu tiên.

3. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về quyền sở hữu công nghiệp

quyền sở hữu công nghiệp

Quyền sở hữu công nghiệp

 

 3.1 Sáng chế
 Bảo hộ sáng chế, bằng cách cấp bằng sáng chế, được cấp bởi Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam. Thời hạn bảo hộ là 20 năm kể từ ngày nộp đơn. Giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp cho đến khi 10 năm sau ngày nộp đơn.

 3.2 Kiểu dáng công nghiệp:
 Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được cấp bởi Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam. Kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và có thể được gia hạn hai nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp.

3. 3 Thiết kế bố trí mạch tích hợp
 Thiết kế bố trí mạch bán dẫn tích hợp được bảo hộ tại Việt Nam và giấy chứng nhận đăng ký có giá trị trong 10 năm kể từ ngày nộp hồ sơ, trong 10 năm kể từ ngày thiết kế bố trí lần đầu tiên được sử dụng thương mại, hay mười lăm năm kể từ ngày thiết kế bố trí được tạo ra.

 3.4 Nhãn hiệu thương mại

 Nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam sau khi đã đăng ký với Cục SHTT hoặc đã được chấp nhận bảo hộ bởi Cục SHTT khi đã nộp thông qua hệ thống Madrid, chỉ định Việt Nam. Cũng có những quy định cụ thể đối với nhãn hiệu ”nổi tiếng”.
 o Phù hợp với thông lệ quốc tế, nhãn hiệu đã được đăng ký liên quan đến hàng hóa và dịch vụ cụ thể.
 o Thời hạn bảo hộ là 10 năm (gia hạn nhiều lần 10 năm liên tiếp) và tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên nộp" và nguyên tắc "ưu tiên " áp dụng.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp (bao gồm cả nhãn hiệu và bằng sáng chế) phải được đăng ký với Cục SHTT. Giấy phép sở hữu công nghiệp không phải đăng ký, nhưng sẽ có hiệu lực thi hành đối với bên thứ ba chỉ khi đăng ký

3.5 Tên thương mại
 Một tên thương mại đó là khả năng phân biệt các doanh nghiệp có liên quan mà nó được sử dụng (ví dụ như đó không phải là gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày sử dụng đầu tiên của tên thương mại) được bảo vệ từ ngày nó được sử dụng đầu tiên tại Việt Nam

3.6 Chỉ dẫn địa lý
Một chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam là nếu sản phẩm mang tên xuất phát từ vị trí tương ứng với chỉ dẫn địa lý và danh tiếng, chất lượng hoặc đặc điểm của sản phẩm là chủ yếu do điều kiện địa lý của địa điểm đó. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vô thời hạn là từ ngày Văn bằng bảo hộ được cấp.

3.7 Bí mật kinh doanh
Bí mật thương mại hoặc kinh doanh được bảo hộ như vậy nếu có đủ các tiêu chuẩn bảo hộ, cụ thể là các bí mật thương mại không phải là thường được biết đến hoặc dễ dàng xác định được, nó mang lại cho người sở hữu nó một lợi thế thương mại hơn những người khác, và chủ sở hữu tiến hành các bước như là cần thiết để giữ bí mật thương mại bí mật và không dễ tiếp cận.

4. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về giống cây trồng

Sở hữu trí tuệ về giống cây trồng

Sở hữu trí tuệ về giống cây trồng

  Giống cây trồng được bảo vệ trong thời gian 25 năm kể từ ngày Văn bằng bảo hộ được cấp trong trường hợp các cây gỗ và dây leo, và 20 năm đối với các giống cây khác. Sửa đổi gần đây để Luật SHTT bao gồm định nghĩa cụ thể cho "vật liệu sinh sản" và "vật liệu thu hoạch" và Điều 186 của Luật SHTT đã được sửa đổi để nói rằng bảo vệ quyền đối với giống cây trồng "cũng áp dụng đối với vật liệu thu hoạch được tạo ra từ việc sử dụng bất hợp pháp vật liệu sinh sản của giống cây trồng được bảo vệ." sửa đổi này được thiết kế để mang lại Luật SHTT vào dòng chặt chẽ hơn với UPOV.

 5. Xác lập quyền sở hữ trí tuệ

 Để có được bảo vệ bằng sáng chế (chứng nhận sáng chế, chứng nhận sáng chế giải pháp hữu ích và chứng nhận kiểu dáng công nghiệp), thiết kế bố trí mạch bán dẫn tích hợp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng, hồ sơ đăg ký phải được nộp cho cơ quan quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ ngay. Trong trường hợp của các bằng sáng chế, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, hổ sơ đăng ký phải được nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ ("NOIP”) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.
Đơn xin bảo hộ giống cây trồng được nộp cho Văn phòng bảo hộ giống cây trồng mới thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Chịu các nghĩa vụ của Việt Nam theo các điều ước áp dụng, bao gồm cả nghĩa vụ của mình để tôn vinh ngày ưu tiên và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, Việt Nam áp dụng nguyên tắc "nộp đầu tiên" trong cấp Văn bằng bảo hộ sáng chế, thiết kế bố trí mạch bán dẫn tích hợp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý.
Các cá nhân và tổ chức nước ngoài phải duy trì một đại lý Việt Nam để nộp đơn xin bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và cung cấp giấy ủy quyền cho đại lý Việt Nam.

6 . Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về tên miền

 Quy định tranh chấp tên miền mới có hiệu lực vào tháng 2 năm 2009 dưới hình thức Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT ("Thông tư 10") ngày 24 Tháng 12, 2008 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp liên quan Tên miền Mã quốc gia Việt Nam ".Vn" và Thông tư số 9/2008/TT-BTTTT (" Thông tư 9 " ) Hướng dẫn quản lý và sử dụng tài nguyên Internet.

 Thông tư 10 là cơ sở để thách thức quyền sở hữu của người khác của một tên miền “.vn” phản ánh quan điểm công nhận rộng rãi hơn của "squatting không gian mạng " tìm thấy trong Chính sách giải quyết tranh chấp tên miền thống nhất ( UDRP ).

 Theo Thông tư 10, nguyên đơn phải chứng minh rằng (i) tên miền tranh chấp trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên thương mại hoặc nhãn hiệu hàng hoá, trong đó bên có quyền, lợi ích hợp pháp, (ii) chủ sở hữu tên miền không có quyền hoặc lợi ích hợp pháp trong tên miền, và (iii) , tên miền đã được đăng ký và đang được sử dụng ý xấu , tức là ý định dùng độc hại.

 Thông tư số 9 quy định rằng các tranh chấp liên quan đến tên miền phát sinh trong quan hệ dân sự hoặc thương mại giữa các bên sẽ được giải quyết theo quy định của Luật Công nghệ Thông tin trong đó nói rằng các tranh chấp tên miền được giải quyết thông qua (i) các cuộc đàm phán không chính thức, hòa giải, (ii) trọng tài hoặc (iii) tố tụng dân sự tại tòa án Việt Nam. Theo Luật IP, nó cũng là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh để đăng ký, sở hữu hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thương mại được bảo hộ (bao gồm cả nhãn hiệu nổi tiếng ) , tên thương mại hoặc chỉ dẫn địa lý của người khác.

7. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ

 Trong trường hợp hàng giả hoặc vi phạm khác về quyền sở hữu trí tuệ ("sở hữu trí tuệ"), Luật Luật Sở hữu trí tuệ quy định chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bị vi phạm với các tùy chọn của biện pháp dân sự, hành chính, hình sự và biện pháp hải quan.

  o Biện pháp dân sự bao gồm các lệnh cấm sơ bộ để nắm bắt, thu thập và bảo vệ chứng cứ vi phạm cũng như bồi thường thiệt hại gây ra bởi hành vi xâm phạm.

 Chủ sở hữu trí tuệ cũng có thể tìm kiếm cứu trợ bằng cách nộp đơn kiện dân sự tại tòa án Việt Nam theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Toà án Việt Nam có thể yêu cầu bị đơn phải ngừng và từ bỏ các hoạt động xâm phạm của mình, phát hành một lời xin lỗi công khai, thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định và bồi thường cho chủ sở hữu trí tuệ đối với thiệt hại kinh tế và tinh thần. Khi thấy có nguy cơ thiệt hại không thể khắc phục cho chủ sở hữu quyền SHTT hoặc nghi ngờ hàng hoá xâm phạm hoặc bằng chứng có thể bị phá hủy hoặc bị mất, chủ sở hữu quyền SHTT có thể tìm kiếm trợ giúp ban đầu hoặc tạm thời trong các hình thức, giữa những người khác, tạm giữ, niêm phong các hàng hoá vi xâm phạm. Trong trường hợp cứu trợ như vậy được cấp, chủ sở hữu quyền SHTT phải gửi đảm bảo một số tiền 20 % giá trị của hàng hóa bị thu giữ, tạm giam, hoặc ít nhất là 20 triệu đồng (khoảng 1.000 USD). Chủ sở hữu trí tuệ sẽ được yêu cầu phải bồi thường cho bị đơn trong trường hợp hàng hóa được tìm thấy được không vi phạm.

 o Biện pháp trừng phạt hành chính (bao gồm cả tịch thu, cảnh báo hoặc phạt tiền) có thể được áp đặt bởi cơ quan thanh tra, công an, cơ quan quản lý thị trường, hải quan và Uỷ ban nhân dân.

 Trong trường hợp cưỡng chế hành chính, chủ sở hữu quyền SHTT thường yêu cầu sự hỗ trợ của Cục Quản lý thị trường ("MMB") và/hoặc Công an kinh tế địa phương, nơi các hoạt động xâm phạm đang diễn ra. Người vi phạm bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và sẽ nhận được một cảnh cáo hoặc phạt tiền ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm, nhưng không quá năm lần giá trị hàng hóa vi phạm. Hàng giả cũng có thể bị tịch thu, cùng với các nguyên vật liệu, thiết bị, phương tiện được sử dụng để sản xuất chúng. Ngoài ra, hàng giả có thể được ra lệnh phá hủy, phân phối thông qua các kênh không thương mại, hoặc vận chuyển hoặc tái xuất ra khỏi Việt Nam sau khi các yếu tố xâm phạm quyền đối với hàng hoá đã được gỡ bỏ.
Như đã nói ở trên, chủ sở hữu quyền SHTT cũng có thể yêu cầu sự hỗ trợ của hải quan Việt Nam bằng cách cung cấp thông tin cần thiết cho hải quan Việt Nam xác định và nắm bắt hàng hoá xâm phạm.

 Một trong những sửa đổi gần đây để Luật SHTT sẽ làm cho việc áp dụng xử phạt hành chính tùy thuộc vào Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ("Pháp lệnh"). Theo Pháp lệnh, mức phạt tối đa có thể được đối với hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ phải là đồng Việt Nam ("VNĐ") 500 triệu đồng (khoảng 25.000 USD). Có nghĩa là, một khi sửa đổi có hiệu lực vào ngày 1 tháng năm 2010, xử phạt hành chính dựa trên giá trị của hàng hoá xâm phạm sẽ không còn áp dụng.

  o Biện pháp trừng phạt hình sự (bao gồm cả tù) có thể áp dụng cho hành vi vi phạm gây hậu quả "nghiêm trọng". Người vi phạm có thể bị truy tố hình sự và bị phạt tiền, phạt tù và thậm chí cả án tử hình, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm.

 o Can thiệp hải quan tại biên giới của Việt Nam có thể bao gồm đình chỉ tạm thời thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu hoặc xuất khẩu bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

8. Chuyển giao công nghệ

 Ngoài các quy định trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại về chuyển giao công nghệ, Việt Nam đã thông qua một luật mới về chuyển giao công nghệ, có hiệu lực từ ngày 1 tháng Bảy năm 2007.

 Trong một nỗ lực để thúc đẩy sự phát triển, sử dụng và phổ biến các công nghệ tiên tiến trên khắp Việt Nam cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Luật Chuyển giao công nghệ và pháp luật có liên quan đã giảm bớt đáng kể các quy định trước đây về việc chuyển giao (bằng cách chuyển nhượng, giấy phép hoặc đóng góp vào vốn) của công nghệ, bí quyết và các quyền sở hữu của bên nước ngoài để bên Việt Nam, trong khi đồng thời cho phép các bên tham gia hợp đồng chuyển giao công nghệ tự do hơn nhiều để xác định các điều khoản của thỏa thuận của họ, bao gồm cả hình thức và số tiền thanh toán cho chuyển giao công nghệ như vậy.

 Công nghệ chuyển giao bao gồm bí quyết kỹ thuật, thông tin kỹ thuật, chẳng hạn như phương án công nghệ, quy trình, giải pháp, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ và các chương trình máy tính, cũng như các phương pháp để tối ưu hóa sản xuất, đổi mới công nghệ Công nghệ được chuyển giao có thể được thể hiện hoặc đi kèm với các quyền sở hữu như bằng sáng chế, thương hiệu, hoặc bí mật thương mại, có hoặc không quyền được bảo hộ tại Việt Nam.

 Chuyển giao công nghệ được khuyến khích nếu, ví dụ , họ tạo ra sản phẩm mới và cạnh tranh cao, các ngành công nghiệp hoặc dịch vụ mới, tiết kiệm năng lượng , nguyên liệu và bảo vệ sức khỏe con người. Chuyển giao công nghệ bị hạn chế nếu hướng vào việc bảo vệ các lợi ích quốc gia, sức khoẻ con người, giá trị văn hóa Việt Nam hoặc bảo vệ các sinh vật sống, tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Chuyển giao công nghệ đều bị cấm nếu không phù hợp với pháp luật về an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe con người hoặc môi trường, hoặc nếu chuyển giao công nghệ tạo ra các sản phẩm gây hại cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, quốc phòng , an ninh, an toàn , hoặc nếu công nghệ này là một bí mật Nhà nước.
Luật Chuyển giao công nghệ cho phép công nghệ được chuyển giao trong các hình thức:
 o hợp đồng chuyển giao công nghệ riêng biệt;
 o Gắn với dự án đầu tư (ví dụ như một phần đóng góp của một bên vốn, cung cấp này là tài liệu bằng văn bản,
 o như một phần của một thỏa thuận nhượng quyền thương mại,
 o như một phần của hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp / cấp phép, hoặc
 o một hợp đồng mua bán máy móc mà một chuyển giao công nghệ có liên quan.

 Hợp đồng chuyển giao công nghệ phải bằng văn bản, trong đó có thể bao gồm một bức điện tín, telex, fax, thông điệp hoặc hình thức khác do pháp luật.

 Pháp luật phân biệt rõ ràng giữa chuyển quyền sở hữu của công nghệ và chuyển giao quyền sử dụng công nghệ.

 Hợp đồng chuyển giao công nghệ hạn chế chỉ có hiệu lực nếu đầu tiên chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 Hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được đăng ký với "cơ quan nhà nước có thẩm quyền" trong trường hợp quy định của pháp luật.

 Bên Việt Nam và nước ngoài có thể thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc tập quán thương mại quốc tế hợp đồng chuyển giao công nghệ (cung cấp này là không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam), và thậm chí cung cấp cho vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước ngoài hoặc tòa án.

9. Nhượng quyền
 Một cách phổ biến để khai thác thương mại một nhãn hiệu thương mại và các quyền sở hữu trí tuệ liên quan và bí quyết là thông qua nhượng quyền thương mại.

 Với việc thông qua Luật Thương mại và pháp luật có liên quan triển khai thực hiện, hình thức nhượng quyền thương mại trong kinh doanh bây giờ có một cơ sở pháp lý cụ thể. Quy định chung của Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền đã được bổ sung bằng Nghị định số 35-2006-NĐ-CP thực hiện trong chi tiết Luật Thương mại Với sự tôn trọng của hoạt động nhượng quyền thương mại ("Nghị định 35"), cung cấp cung cấp pháp lý cụ thể hơn quản nhượng quyền thương mại.

 Trong khi cung cấp bên nhượng quyền và bên nhận quyền một mức độ đáng kể quyền tự do hợp đồng, khung pháp lý cho nhượng quyền thương mại tại Việt Nam , giống như ở các nước khác, công nhận sự cần thiết cho một số tiền nhất định của giám sát quản lý của doanh nghiệp nhượng quyền thương mại. Về vấn đề này, Nghị định 35, trong số những thứ khác :
 o Yêu cầu thương nhân nhượng quyền đã hoạt động hệ thống nhượng quyền thương mại của mình cho một ít nhất một năm trước khi nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, và nếu bên nhận nhượng quyền là một thươ nhân Việt Nam, nhận quyền này phải hoạt động nhượng quyền thương mại ít nhất một năm trước khi phụ nhượng quyền thương mại hệ thống nhượng quyền thương mại;
 o Yêu cầu rằng hệ thống nhượng quyền thương mại được đăng ký với Bộ Thương mại;
 o Yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp bên nhận quyền tiềm năng với một tài liệu tiết lộ ít nhất mười lăm 15 ngày trước khi các bên tham gia hợp đồng nhượng quyền thương mại. (Bộ Thương mại đã ban hành các quy định về thông tin đó phải được chứa trong các tài liệu công bố thông tin và thông tin có thể được tiết lộ một cách tự nguyện.)
 

Công ty Luật TNHH Laywer Việt Nam

Bình luận (0)

Gửi bình luận của bạn

Captcha reload