Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam

Giới thiệu hai yếu tố cơ bản cơ chế giải quyết tranh chấp tại Việt Nam: sự lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp và luật điều chỉnh.

Ngày đăng: 24-09-2013

13,478 lượt xem

1 . Giới thiệu cơ chế giải quyết tranh chấp tại Việt Nam

 Bất kỳ đầu tư quốc tế nào, sự lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp và luật điều chỉnh là cần thiết để đảm bảo sự chắc chắn, ổn định và thực thi các quyền và nghĩa vụ hợp đồng.

Cơ chế giải quyết tranh chấp ở Việt Nam

                 Cơ chế giải quyết tranh chấp ở Việt Nam

Các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể đàm phán với các đối tác Việt Nam và bên đối tác thông qua:
- lựa chọn thương lượng, hoà giải, trọng tài hoặc khởi kiện như là phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến đầu tư của họ, và
- lựa chọn hoặc luật pháp Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài là luật điều chỉnh hợp đồng của họ.

Theo luật Việt Nam, các bên luôn luôn có thể chọn pháp luật Việt Nam và tòa án Việt Nam trong hợp đồng của họ. Đây là thực tế vị trí mặc định. Ngoài ra, khi mà mối quan hệ là một trong những quan hệ thương mại theo Luật Trọng tài thương mại, các bên có thể chọn để phân xử theo Luật đó. Tuy nhiên, sự lựa chọn của pháp luật nước ngoài hoặc trọng tài quốc tế có thể phức tạp hơn. Để có sự lựa chọn "đúng" sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng Hợp đồng, và điều quan trọng là phải hiểu được những lợi thế và rủi ro do mỗi sự lựa chọn có thể cũng như các luật lệ Việt Nam bắt buộc mà có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn hiện có.

2 . Luật điều chỉnh trong giải quyết tranh chấp tại Việt Nam

 Luật điều chỉnh hợp đồng là pháp luật được áp dụng trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng. Điều này khác với pháp luật bắt buộc của nơi hợp đồng được thực hiện (ví dụ như quy định về lao động, môi trường ) phải được tuân thủ không phụ thuộc vào lựa chọn luật điều chỉnh. Có các lựa chọn luật điều chỉnh nước ngoài sẽ không làm nhà đầu tư nước ngoài miễn trừ bất cứ nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam.

Nói chung , pháp luật Việt Nam cho phép lựa chọn một luật nước ngoài duy nhất khi  hợp đồng liên quan đến "yếu tố nước ngoài”, trong đó thường có nghĩa là sự tham gia của bên nước ngoài hoặc tài sản ở nước ngoài. Nhưng sự cho phép cho một sự lựa chọn của pháp luật nước ngoài thường thỏa mãn điều kiện, bao gồm cả điều kiện là pháp luật nước ngoài (hoặc sự lựa chọn hoặc áp dụng)  không mâu thuẫn với "các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Cụ thể là:
• Luật Đầu tư cho phép một sự lựa chọn của pháp luật nước ngoài đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhưng duy nhất mà pháp luật Việt Nam là im lặng và áp dụng pháp luật nước ngoài được lựa chọn không mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam;
• Luật Thương mại cho phép một sự lựa chọn của pháp luật nước ngoài đối với hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài , một lần nữa với điều kiện pháp luật nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và
• mặc dù Bộ luật Dân sự cho phép các bên tham gia hợp đồng liên quan đến " yếu tố nước ngoài để lựa chọn pháp luật nước ngoài ( với điều kiện là sự lựa chọn không mâu thuẫn với quy định của pháp luật Việt Nam), Bộ luật cũng quy định trường hợp hợp đồng được ký kết và thực hiện hoàn toàn trong Việt Nam, nó phải được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam.

Thực tế là những sự lựa chọn của pháp luật nước ngoài khác nhau như tùy thuộc vào các nguyên tắc và quy định của pháp luật Việt Nam (mà không thể được xác định dứt khoát) có thể có nghĩa là một sự lựa chọn luật điều chỉnh nước ngoài, thậm chí nếu được phép, có thể không dẫn đến việc áp dụng luật nước ngoài một cách có chủ đích hoặc dự đoán của phía nước ngoài, đặc biệt khi mà vấn đề kết thúc trong một tòa án Việt Nam.

3 .  Phương thức giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.

 3.1 Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam bằng thương lượng

 Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, bàn bạc, tìm các biện pháp thích hợp, và đi đến thống nhất thoả thuận để tự giải quyết các bất đồng. 
 Ưu điểm:
- Sự thuận tiện, nhanh chóng, đơn giản, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.
- Bảo vệ uy tín cũng như bí mật trong kinh doanh của các bên
Hạn chế:
-  Kết quả của thương lượng phụ thuộc vào sự hiểu biết và thái độ, thiện chí, hợp tác của các bên tranh chấp.
- Kết quả thương lượng lại không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc, mà phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của các bên.

3.2. Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam bằng trung gian và hòa giải

3.2.1. Vai trò của trung gian và hòa giải

 Với sự yếu kém đáng kể trong hệ thống tòa án Việt Nam (xin xem phần dưới đây), do đó các bên tham gia tranh chấp bất kỳ nỗ lực để đạt được một giải pháp hoà giải thông qua hòa giải và hoà giải là điều rất quan trọng và cần thiết.
Pháp luật Việt Nam thừa nhận điều này bằng cách yêu cầu các bên tranh chấp nhất định (bao gồm cả dân sự , lao động và gia đình) ít nhất là nỗ lực hòa giải trước khi cho phép họ bắt đầu thủ tục tố tụng. Hơn nữa nếu tranh chấp được bắt đầu, tòa án sẽ tổ chức các buổi hòa giải với nỗ lực để đạt được một giải pháp hoà giải mà không phải đưa ra xét xử (xem bên dưới). Thật không may mặc dù công nhận này về tầm quan trọng của các phương pháp giải quyết tranh chấp Việt Nam chưa có bất kỳ tổ chức, cá nhân chuyên về hòa giải, hòa giải. Tuy nhiên, nhóm trung gian hòa giải không chuyên nghiệp được thành lập để thực hiện hòa giải ở cấp địa phương

3.2.2 Hiệu lực thi hành

 Phương pháp thực thi phụ thuộc vào đã đạt được giải quyết như thế nào. Nếu các bên đạt được một giải pháp trong quá trình hòa giải, hòa giải rằng thỏa thuận sẽ được thực thi như một thỏa thuận hợp đồng bình thường. Như vậy tất cả các biện pháp khắc phục khoán thông thường sẽ có sẵn nên hoặc vi phạm bất kỳ bên nào trong các quy định thỏa thuận. Tuy nhiên, bất kỳ thỏa thuận giải quyết trước khi xét xử đạt được tại một tòa án cuộc họp hòa giải sắp xếp sẽ được công nhận là quyết định của một thẩm phán và được coi là cuối cùng và hiệu lực thi hành đối với các bên như vậy.

3.3. Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam bằng trọng tài

 Hệ thống tòa án của Việt Nam còn kém phát triển và nó có thể được rườm rà và tốn thời gian để bắt đầu một hành động tòa án và có được một phán quyết của tòa án tại Việt Nam. Trong năm 2003, trọng tài trở thành một cơ chế chính thức để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ "hoạt động thương mại". Trong tháng sáu năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Trọng tài thương mại, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011 ("Luật Trọng tài " ). Luật trọng tài là nhằm khuyến khích việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tạo điều kiện cho sự phát triển của hoạt động trọng tài thương mại ở Việt Nam phù hợp với phát triển kinh tế xã hội hiện nay của đất nước .

3.3.1. Trọng tài trong nước

 Quyết định trọng tài trong nước có hiệu lực thi hành như một bản án tòa án. Tuy nhiên, trước đây, việc lựa chọn trọng tài Việt Nam để tranh chấp là ít phổ biến do những hạn chế trong khuôn khổ trọng tài thương mại, bao gồm việc thiếu tự chủ trong chỉ định trọng tài và không có khả năng cho ban trọng tài áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tuy nhiên, từ ngày 1 tháng 1 năm 2011,  môi trường trọng tài tại Việt Nam sẽ bắt đầu một trang mới nhờ vào luật mới về Trọng tài thương mại thay thế Pháp lệnh năm 2003 hiện có. Luật mới giải quyết một số những hạn chế của các quy định trước đây thực hiện một lựa chọn trọng tài trong nước nên hấp dẫn hơn là một diễn đàn giải quyết tranh chấp đối với các nhà đầu tư nước ngoại.

3.3.2. Trọng tài nước ngoài và thi hành

 Trọng tài quốc tế (hoặc nước ngoài) được cho phép theo Luật đầu tư cho các hợp đồng liên quan đến nhà đầu tư, công ty đầu tư nước ngoài.
Trọng tài nước ngoài cũng được phép có hiệu quả các tranh chấp thương mại của Luật Thương mại theo những ngôn ngữ rất chung, cho phép các tranh chấp được giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài. Trong khi chưa có luật chung cho phép một sự lựa chọn của trọng tài quốc tế cho tranh chấp phi thương mại, khi đó Việt Nam sẽ chỉ thi hành quyết định trọng tài nước ngoài trong tranh chấp thương mại, do dó trong mọi trường hợp sẽ ít có giá trị pháp luật Việt Nam trong việc có được một quyết định trọng tài nước ngoài trong một vụ tranh chấp phi thương mại.
Thi hành tại Việt Nam của phán quyết cuối cùng được thực hiện bởi một cơ quan trọng tài nước ngoài là một yếu tố quan trọng cần xem xét trong việc đưa ra một lựa chọn trọng tài nước ngoài là một phương thức giải quyết tranh chấp. Việt Nam là thành viên của Công ước New York về công nhận và cho thi hành của Trọng tài nước ngoài. Như bản án của tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài không thể được thi hành tại Việt Nam cho đến khi được chính thức công nhận bởi Toà án nhân dân cấp tỉnh tại địa phương. Trọng tài nước ngoài là quyết định trọng tài thực hiện bên ngoài của Việt Nam hoặc bên trong Việt Nam bởi một trọng tài nước ngoài do các bên thống nhất chỉ định. Như đã nói ở trên, tùy thuộc vào trường hợp ngoại lệ nhất định, Toà án Việt Nam được yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài thực hiện khác với nội dung Công ước New York được như là một bản án của Toà án Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, chỉ có một số giới hạn của Trọng tài nước ngoài đã được đệ trình cho thi hành tại Việt Nam và các (có giới hạn ) trải nghiệm đến nay cho thấy rằng việc thực thi quyết định trọng tài nước ngoài có thể khó khăn và Việt Toà án có quyền từ chối thực thi trên cơ sở khá kỹ thuật hoặc chính. Sự liên quan của vấn đề này sẽ phụ thuộc vào nơi có tài sản của bị cáo, và cho dù bất kỳ phán quyết có thể được thực thi bên ngoài của Việt Nam.

 Do sự không chắc chắn bao quanh thi hành quyết định trọng tài ở Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thích giải quyết tranh chấp với đối tác Việt Nam bằng trọng tài hoặc Hồng Kông hay Singapore, có vị trí địa lý gần và có hệ thống pháp luật phát triển.
Chế độ trọng tài ở Việt Nam vẫn đang phát triển và đang chờ đợi việc phát hành các hướng dẫn và quy định để thực hiện Luật Trọng tài.

3.4. Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam bằng tòa án

3.4.1. Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam bằng tòa án và luật sư nước ngoài.

a. Thẩm quyền: Pháp luật Việt Nam không cho phép một nhà đầu tư chọn tranh chấp tại tòa án thuộc thẩm quyền quốc tế.

b. Sự lựa chọn của Luật

 Một vấn đề của luật pháp, thẩm phán Việt Nam không áp dụng pháp luật nước ngoài trong vụ án bình đẵng như chú thích dưới đây luật sư nước ngoài không có thể được tham gia trước tòa, cũng không phải chuyên gia nước ngoài có thể được gọi để làm chứng. Vì những lý do này nhà đầu tư nên lưu ý rằng các tòa án Việt Nam có thể sẽ không duy trì lựa chọn các quy định của pháp luật hợp đồng, Vì vậy nhà đầu tư cần phải, hoặc bao gồm một điều khoản đề tranh chấp tại trọng tài hoặc họ cần phải được chuẩn bị để thực thi các quyền của họ tại tòa án Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.

c. Quyết định Tòa án nước ngoài

 Nếu tranh chấp có nguồn gốc và xét xử nước ngoài v nhưng cần phải được thi hành tại Việt Nam? ví dụ như khi tài sản của bị đơn được đặt ở Việt Nam, sau đó điều gì sẽ xảy ra? Bản án do Toà án nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam nếu Việt Nam đã ký kết một hiệp ước song phương với các nước sở tại. Việt Nam đã ký kết hiệp định này với Nga , Pháp . Trung Hoa, Cuba , Bulgaria và Hungary. Tuy nhiên, với ngoại lệ của Pháp các hiệp ước này chỉ bao gồm bản án phi thương mại và do đó nếu một nhà đầu tư đạt được một phán quyết liên quan đến một vấn đề thương mại trong một trong những quốc gia đánh giá là vẫn còn không thi hành tại Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn hy vọng vì Toà án Việt Nam công nhận và thi hành bản án của tòa án nước ngoài trên cơ sở có đi có lại .

3.4.2  Giải quyết tranh chấp tại Việt Nam bằng tòa án trong nước

 Giải quyết tranh chấp bằng Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết  buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế.

Trông cậy vào các tòa án trong nước thường được đề xuất bởi các đối tác Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài có thể miễn cưỡng đồng ý với sự lựa chọn này do không quen với Toà án Việt Nam, tiềm năng và mối quan tâm về tính khách quan , độc lập và hiệu quả của hệ thống tòa án.
Quy định của luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định về hệ thống tòa án tại Việt Nam. Có ba cấp độ của tòa án tại Việt Nam; Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và Toà án nhân dân tối cao giám sát và đốc việc xét xử Toà án nhân dân. Ngoài ra còn có các tòa án đặc biệt như tòa án hành chính, tòa án kinh tế và tòa án lao động trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh, và tòa án quân sự.
Việt Nam đi theo hệ thống pháp luật dân sự. Điều này có nghĩa là Việt Nam không theo học thuyết tiền lệ là cơ sở cho hệ thống thông luật phương Tây như Anh hoặc Mỹ. Thay vì Thẩm phán chỉ căn cứ quyết định dựa trên pháp luật có liên quan và các nguyên tắc giải thích.
                                                                                                                                                                                                                                                   Lawyervn.net           

   Bài viết đã đăng: - Các lưu ý trước khi khởi kiện, Nhấn đây 

                             - Soan thảo đơn khởi kiện, Nhấn đây

Bình luận (0)

Gửi bình luận của bạn

Captcha reload